
- Theo đại diện Bộ GD-ĐT, chủ trương bỏ quy định cộng điểm khuyến khích trong tuyển sinh vào lớp 10 nhằm đảm bảo mục tiêu chọn được đúng học sinh có khả năng tiếp tục học ở cấp THPT, đồng thời khắc phục hiện tượng làm "đẹp hồ sơ".Ông Nguyễn Xuân Thành, Phó Vụ trưởng Vụ Giáo dục Trung học (Bộ GD-ĐT) đã có những chia sẻ về chủ trương bổ sung, sửa đổi quy định điểm ưu tiên, khuyến khích trong tuyển sinh THPT.
 |
Ông Nguyễn Xuân Thành, Phó Vụ trưởng Vụ Giáo dục Trung học (Bộ GD-ĐT). Ảnh: Thanh Hùng. |
- Ông có thể cho biết những thay đổi trong quy định về điểm ưu tiên, khuyến khích trong dự thảo sửa đổi quy chế tuyển sinh THCS và THPT và vì sao cần có những thay đổi này?
- Dự thảo Quy chế tuyển sinh THCS và THPT ban hành kèm theo Thông tư số 11/2014/TT-BGDĐT ngày 18/4/2014 của Bộ trưởng Bộ GD-ĐT sửa đổi, bổ sung khoản 3 Điều 7, theo đó, dự thảo bỏ quy định "Sở GD-ĐT quy định đối tượng và điểm cộng thêm cho từng loại đối tượng được hưởng chế độ khuyến khích".
Thực tế thời gian qua cho thấy, quy định này là một trong những nguyên nhân làm cho số lượng các cuộc thi dành cho học sinh ở địa phương nhiều, chồng chéo, gây áp lực cho học sinh, không nhận được sự đồng tình của xã hội. Trước đó, Bộ GD-ĐT đã có văn bản gửi các địa phương về việc tinh giảm các cuộc thi dành cho học sinh. Thay đổi quy định cộng điểm khuyến khích trong tuyển sinh THPT sẽ là một trong những giải pháp nhằm thực hiện có hiệu quả chủ trương tinh giảm các cuộc thi của Bộ.
- Một số phụ huynh, học sinh băn khoăn rằng, việc bỏ điểm cộng thêm kết quả thi nghề phổ thông vào kết quả tuyển sinh lớp 10 sẽ hạn chế động lực học nghề của học sinh. Ông có ý kiến gì về băn khoăn này?
- Việc không giao cho các sở giáo dục và đào tạo quy định đối tượng cộng điểm khuyến khích, trong đó bao gồm cả việc thi nghề phổ thông nhằm đảm bảo mục tiêu chọn được đúng học sinh có khả năng tiếp tục học ở cấp trung học phổ thông, đồng thời khắc phục hiện tượng làm "đẹp hồ sơ", khiến nhiều học sinh chạy theo điểm cộng trong tuyển sinh vào lớp 10, có đăng ký học nghề nhưng thực tế việc học nghề chỉ mang tính hình thức, không thực chất.
Dù không còn điểm cộng trong tuyển sinh vào lớp 10 nhưng kết quả thi nghề của học sinh THCS vẫn được sử dụng để khuyến khích trong việc xét tốt nghiệp THCS theo Quy chế hiện hành tại Quyết định số 11/2006/QĐ-BGDĐT ngày 05/4/2006.
Cũng phải nói thêm, việc quy định cho các địa phương sử dụng kết quả thi nghề phổ thông được cộng điểm khuyến khích để xét tốt nghiệp THCS chỉ là một trong những biện pháp nhằm khuyến khích học sinh học nghề phổ thông, góp phần thực hiện tốt chủ trương giáo dục hướng nghiệp và phân luồng học sinh sau THCS, chứ việc cộng điểm khuyến khích không phải mục đích của việc dạy học nghề phổ thông.
Đối với những học sinh học nghề vì mục đích học tập, tìm hiểu để có những hiểu biết, kỹ năng ban đầu về một số nghề phổ biến trong xã hội, phát huy năng lực cá nhân để lựa chọn hướng phát triển nghề nghiệp trong tương lai thì tôi tin, các em vẫn có động lực học tập tốt.
- Liệu các địa phương, cơ sở có kịp thay đổi việc tuyển sinh vào lớp 10 trước những thay đổi của Bộ?
- Chủ trương sửa đổi, bổ sung một số quy định trong quy chế tuyển sinh vào THPT, trong đó có việc bỏ quy định cộng điểm khuyến khích trong Quy chế tuyển sinh đã được dự thảo và đưa lên mạng xin ý kiến rộng rãi từ trung tuần tháng 12 năm 2017. Trong quá trình dự thảo, cùng với việc chỉ đạo tinh giảm các cuộc thi dành cho học sinh, các địa phương cũng đã sớm biết chủ trương của Bộ nên đã có sự chuẩn bị.
- Ông có thể cho biết thời gian ban hành thông tư vì hiện địa phương đang chờ quy chế chính thức để xây dựng phương án thi vào 10?
- Theo quy định, dự thảo Thông tư được đăng trên Cổng thông tin của Bộ GD-ĐT đến hết ngày 18/2/2018. Hết thời hạn đó, Bộ sẽ hoàn thiện dự thảo Thông tư trên cơ sở tiếp thu các ý kiến góp ý để ban hành chính thức.
- Xin cảm ơn ông!
Ông Lê Tuấn Tứ, Giám đốc Sở GD-ĐT Khánh Hòa:Bỏ cộng điểm khuyến khích thi nghề không có nghĩa là bỏ dạy nghề cho học sinh Theo tôi việc bỏ cộng điểm khuyến khích thi nghề phổ thông trong kỳ thi tuyển sinh vào lớp 10 là hợp lý nhằm tạo sự công bằng cho học sinh trong học tập cũng như thi cử. Theo đó, chất lượng học sinh vào lớp 10 sẽ thực chất hơn. Giả sử Trường THPT A lấy điểm đầu vào là 14 điểm 2 môn. Nếu như trước kia học sinh làm bài thi không đạt được số điểm trên nhưng nhờ có điểm cộng thi nghề nên đã được 14 điểm và trúng tuyển vào lớp 10. Tuy nhiên, nếu bỏ điểm cộng này thì bắt buộc học sinh phải thi và đạt được 14 điểm mới đỗ vào lớp 10. Rõ ràng, nếu xét 2 trường hợp nêu trên thì chất lượng đại trà đầu vào lớp 10 ở trường hợp thứ 2 sẽ tốt hơn. Hơn nữa, cũng phải nhìn thẳng vào sự thật đó là, việc dạy nghề cho học sinh ở bậc THCS còn nhiều hạn chế, nhiều nơi còn hình thức nên không tạo được động lực cho học sinh trong học tập cũng như định hướng nghề nghiệp. Mặt khác, nhiều học sinh chọn thi nghề là vì điểm cộng chứ không phải vì định hướng nghề nghiệp. Vô hình chung việc thi nghề đã trở thành "phao cứu cánh" cho nhiều học sinh vào lớp 10, điều này khiến cho việc thi nghề không còn ý nghĩa như mục tiêu ban đầu. Cũng cần phải hiểu tường minh rằng, bỏ cộng điểm khuyến khích thi nghề không có nghĩa là chúng ta bỏ dạy nghề cho học sinh. Có nhiều cách dạy, cách học khác nhau, các trường có thể tổ chức sao cho phù hợp với điều kiện thực tiễn và đảm bảo chất lượng cao nhất. Ở một khía cạnh khác, tôi cho rằng, cộng điểm thi nghề bằng với số điểm cộng học sinh cấp tỉnh là chưa phù hợp và cân xứng. Không có lý gì mà một em học sinh cấp tỉnh được cộng 2 điểm mà em thi nghề cũng được cộng 2 điểm vào tuyển sinh lớp 10. Hai kỳ thi hoàn toàn khác nhau và chất lượng cũng hoàn toàn khác nhau. Do đó, tôi đồng tình với quan điểm bỏ cộng điểm khuyến khích thi nghề phổ thông trong kỳ thi tuyển sinh vào lớp 10 nhằm giảm bớt sự chồng chéo giữa các điểm cộng ưu tiên cho học sinh. Ông Đào Đức Tuấn, Giám đốc Sở GD-ĐT Bình Định: Góp phần phân luồng học sinh THCS được tốt hơn Tôi đồng tình với quy định bỏ cộng điểm khuyến khích cho thí sinh khi tuyển sinh vào lớp 10, vì như vậy sẽ tạo được động lực học tập cho các em học sinh. Không còn điểm cộng thi nghề, các em sẽ nỗ lực trong học tập hơn, tránh tình trạng ỷ lại vào điểm khuyến khích, qua đó chất lượng kỳ thi và chất lượng đầu vào của học sinh lớp 10 cũng sẽ tốt hơn. Mặt khác, bỏ điểm cộng thi nghề cũng góp phần phân luồng ngay từ bậc THCS được tốt hơn. Chẳng hạn, học sinh A lẽ ra không đỗ vào lớp 10, nhưng vì có điểm cộng thi nghề nên em đã trúng tuyển. Đặt giả thiết, nếu học sinh A không có điểm cộng, thì có thể em đó sẽ chuyển sang học nghề để phù hợp với năng lực và sở trường hơn mà vẫn có thể học bổ túc văn hóa. Tuy nhiên, vì có điểm cộng nghề nên học sinh A vẫn lên lớp 10, nhưng kết quả học tập sẽ không cao. Cuối cùng sau 3 năm học THPT, em đó vẫn phải đi học ở một trường nghề. Như vậy là rất lãng phí. Vì thế tôi đồng tình với dự thảo quy định bỏ cộng điểm khuyến khích cho thí sinh khi tuyển sinh vào lớp 10 như Bộ GD-ĐT vừa công bố. |
Thanh Hùng

Tại sao nên bỏ cộng điểm khuyến khích học nghề?
Năm học 2016-2017, nhiều học sinh và phụ huynh ở Nha Trang bất bình vì học sinh giỏi 4 năm vẫn không vào được Trường THPT Lý Tự Trọng vì không có điểm nghề cộng thêm.
" alt="Bỏ cộng điểm nghề thi vào 10 để khắc phục hiện tượng làm đẹp hồ sơ"/>
Bỏ cộng điểm nghề thi vào 10 để khắc phục hiện tượng làm đẹp hồ sơ
Bộ GD-ĐT vừa ban hành kết luận thanh tra Công ty TNHH một thành viên Nhà xuất bản (NXB) Giáo dục Việt Nam. Theo đó, Thanh tra Bộ GD-ĐT đã chỉ ra nhiều thiếu sót, sai phạm trong các hoạt động của đơn vị này.
Cụ thể, NXB Giáo dục Việt Nam được tổ chức theo mô hình Hội đồng thành viên (HĐTV), tuy nhiên, trong năm 2015, nhiều nội dung nghị quyết của HĐTV được ban hành không thống nhất với biên bản cuộc họp, không rõ cơ sở ban hành; một số nội dung thảo luận, được biểu quyết nhất trí 100% thông qua, ghi trong biên bản họp nhưng không được đưa vào nghị quyết của HĐTV.
Đáng chú ý, ông Mạc Văn Thiện, thời gian giữ chức Chủ tịch HĐTV đã kiêm nhiệm chức danh Chủ tịch Hội đồng quản trị (HĐQT) và ủy viên HĐQT tại ba công ty thành viên, vi phạm Luật Doanh nghiệp.
Đối với ông Vũ Văn Hùng, khi làm Tổng Giám đốc chưa thực hiện việc ký các văn bản bổ nhiệm cán bộ theo thẩm quyền; chưa báo cáo với Bộ GD-ĐT các thiếu sót, hạn chế trong thực hiện mối quan hệ giữa HĐTV với Tổng Giám đốc…
 |
Nhiều sai phạm trọng hoạt động của NXB Giáo dục Việt Nam. |
Việc tuyển dụng, ký hợp đồng lao động, thực hiện chế độ tiền lương của NXB Giáo dục Việt Nam cũng có nhiều sai phạm.
Qua kiểm tra 11 hồ sơ tuyển dụng hai năm 2015 và 2016 cho thấy, công ty này chưa thực hiện đúng quy chế tuyển dụng, bổ nhiệm như: không thông báo tuyển dụng theo quy định; Chủ tịch HĐTV ký một số văn bản trái quy định, không đúng thẩm quyền.
Ngoài ra, kiểm tra 21 hồ sơ bổ nhiệm tại NXB Giáo dục Việt Nam và các đơn vị trực thuộc, từ tháng 1/2015 đến tháng 12/2016, có 13 quyết định bổ nhiệm được Chủ tịch HĐTV ký không đúng thẩm quyền…
Đối với công tác quản lý tài chính, theo kết luận thanh tra, tại thời điểm 31/12/2015, NXB Giáo dục Việt Nam có vốn đầu tư tại 54 công ty với tổng giá trị 548,4 tỷ đồng.
Trong đó, có 18 công ty (vốn đầu tư hơn 192,1 tỷ đồng) hoạt động không hiệu quả, không có cổ tức để chi trả. Tại thời điểm 31/12/2016, NXB Giáo dục Việt Nam có vốn đầu tư tại 52 công ty, với tổng giá trị đầu tư hơn 546,5 tỷ đồng thì có 17 công ty (vốn đầu tư hơn 178,4 tỷ đồng) không chi trả cổ tức. Như vậy, việc góp vốn đầu tư của NXB Giáo dục Việt Nam vào nhiều công ty không hiệu quả, có những công ty hoạt động thua lỗ trong nhiều năm.
Đáng chú ý, thực hiện đề án tái cơ cấu, NXB Giáo dục Việt Nam đã tăng vốn đầu tư tại một số công ty trái với quyết định của Bộ GD-ĐT. Trong đó, tăng vốn cao hơn mức được phê duyệt tại: Công ty cổ phần đầu tư và phát triển giáo dục Phương Nam, từ 16,6 tỷ đồng lên 20 tỷ đồng; Công ty cổ phần Dịch vụ xuất bản giáo dục Hà Nội, từ 6,3 tỷ đồng lên 7,188 tỷ đồng. Công ty cổ phần Mỹ thuật và Truyền thông phải giữ nguyên vốn góp 5,1 tỷ đồng thì lại được NXB Giáo dục Việt Nam tăng thêm 4,712 tỷ đồng.
Đáng chú ý, Công ty cổ phần Sách thiết bị trường học Tiền Giang phải thực hiện thoái vốn thì NXBGD Việt Nam lại tăng vốn 0,274 tỷ đồng. Trong khi đó, Công ty cổ phần Sách giáo dục Hà Nội phê duyệt tăng vốn 30,8 tỷ đồng nhưng chỉ tăng 17,1 tỷ đồng; Công ty cổ phần Đầu tư phát triển giáo dục Hà Nội phê duyệt tăng 19 tỷ đồng nhưng chỉ tăng 5,1 tỷ đồng.
Ngoài ra, trong công tác thoái vốn, năm 2015 theo kế hoạch phải thoái vốn tại 36 công ty, nhưng đến 31/12/2016 vẫn còn 32 công ty chưa thực hiện thoái vốn thành công. Việc thực hiện thoái vốn chậm có nguyên nhân do nội dung nghị quyết HĐTV lần thứ chín năm 2015 trái với đề án đã được phê duyệt.
Bất minh ở các dự án đầu tư
Trong quản lý, đầu tư dự án xây dựng trụ sở làm việc NXB Giáo dục tại số 104 Mai Thị Lựu, phường Đa Kao, quận 1, TP.HCM, NXB Giáo dục Việt Nam không trình Bộ GD-ĐT phê duyệt theo quy định.
Quá trình triển khai dự án, NXB Giáo dục Việt Nam đã chấp thuận để hai công ty con góp vốn vào kinh doanh bất động sản; phê duyệt đầu tư 50 tỷ đồng xây dựng tòa nhà văn phòng 10 tầng, khi thời hạn được giao sử dụng đất chỉ còn bảy năm. Mặt khác, công trình thuộc dự án lại cho thuê toàn bộ; quá trình giao đơn vị ký hợp đồng lòng vòng, thiếu minh bạch…
Đối với dự án xây dựng công trình hỗn hợp cao tầng trên toàn bộ diện tích sàn sử dụng 5.619,5 m2 tại 187B Giảng Võ, quận Đống Đa (Hà Nội), năm 2008, NXB Giáo dục Việt Nam ký hợp đồng nguyên tắc với Công ty cổ phần Xây dựng sông Hồng để hợp tác thực hiện. Sau đó, NXB Giáo dục Việt Nam ký hợp đồng liên doanh với Công ty cổ phần Xây dựng sông Hồng và hai công ty khác để thành lập Công ty cổ phần Đầu tư IP Việt Nam (Công ty IP) vốn điều lệ 100 tỷ đồng, để đầu tư dự án trên (NXBGD Việt Nam góp vốn 41%, do ông Mạc Văn Thiện làm Chủ tịch HĐQT).
Sau đó, NXB Giáo dục Việt Nam ký với Công ty IP hợp đồng thỏa thuận nhận 95 tỷ đồng để thực hiện di dời, bàn giao mặt bằng đất của dự án. Tuy nhiên, sau gần mười năm triển khai dự án vẫn chưa được khởi công, NXB Giáo dục Việt Nam chưa nhận được đủ số tiền theo thỏa thuận nhưng lại phải đi thuê văn phòng làm việc bằng vốn đi vay; việc góp vốn, nhận ủy thác góp vốn, chuyển nhượng lòng vòng trong các công ty con…
Cùng với thiếu sót, sai phạm nêu trên, Công ty Đầu tư tài chính Thiên Hóa (Công ty Thiên Hóa) được thành lập năm 2009, có vốn điều lệ 200 tỷ đồng (vốn góp của NXBGD Việt Nam là hơn 68,7 tỷ đồng), đến năm 2011 có nghị quyết giải thể.
Tuy nhiên, NXB Giáo dục Việt Nam vẫn đầu tư hơn 13,7 tỷ đồng vào để mua cổ phần của các cá nhân. Ông Mạc Văn Thiện làm Chủ tịch HĐQT Công ty Thiên Hóa đồng thời lại là đại diện NXBGD Việt Nam ký nhiều hợp đồng vay vốn với chính Công ty Thiên Hóa, số tiền hơn 136,3 tỷ đồng, lãi suất trung bình 15%/năm.
Ngoài ra, theo nghị quyết của HĐQT, ngày 9/1/2010, ông Mạc Văn Thiện đã ký quyết định cho bà Huỳnh Thị Thanh Hiền vay 14 tỷ đồng, thế chấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và khách sạn số 38 Hoàng Diệu, TP Đà Nẵng nhưng sau đó lại phê duyệt cho bà Hiền mượn lại giấy chứng nhận quyền sử dụng đất (không thông qua HĐQT) dẫn đến việc không thu hồi được khoản vay của bà Hiền hơn 15,5 tỷ đồng (cả gốc và lãi).
Ngày 10/1/2017, Bộ GD-ĐT có Công văn số 79/BGDĐT-KHTC gửi NXB Giáo dục Việt Nam tạm dừng mua sắm, thanh lý, nhượng bán tài sản, chuyển nhượng vốn đầu tư, thoái vốn đầu tư. Ngày 11/1/2017, Công ty Đầu tư tài chính giáo dục (công ty thành viên của NXB Giáo dục Việt Nam) và các đơn vị vẫn bán ba lô đất ở Đà Nẵng với giá trị hơn 42,5 tỷ đồng. Theo kết luận thanh tra, việc ông Mạc Văn Thiện, Chủ tịch HĐTV chỉ đạo bán ba lô đất tại cuộc họp HĐTV trước đó không đúng thẩm quyền; ngày 13/1 vẫn ký công văn báo cáo Bộ GD-ĐT chưa có thông tin về việc bán ba lô đất trên...
Với hàng loạt những sai phạm, kết luận thanh tra của Bộ GD-ĐT khẳng định trách nhiệm thuộc ông Ngô Trần Ái, nguyên Chủ tịch HĐTV, Tổng Giám đốc; ông Mạc Văn Thiện, nguyên Chủ tịch HĐTV; ông Vũ Văn Hùng, nguyên Tổng Giám đốc; và một số thành viên HĐTV, Phó Tổng Giám đốc NXBGD Việt Nam…
Kết luận thanh tra đã kiến nghị kiểm điểm, xử lý trách nhiệm đối với cá nhân, tổ chức liên quan các sai phạm nói trên.
Theo Nhân Dân
" alt="Kết luận thanh tra Nhà xuất bản Giáo dục Việt Nam"/>
Kết luận thanh tra Nhà xuất bản Giáo dục Việt Nam
Thứ trưởng Bộ GD-ĐT Hoàng Minh Sơn vừa ký Thông tư số 23/2021/TT-BGDĐT ban hành Quy chế tuyển sinh và đào tạo trình độ thạc sĩ, thay thế Thông tư số 15 vào năm 2014.Theo đánh giá của Bộ GD-ĐT, Quy chế thực hiện đúng tinh thần nâng cao quyền tự chủ và trách nhiệm giải trình của các cơ sở giáo dục đại học (GDĐH) theo Luật Giáo dục đại học (đã sửa đổi, bổ sung năm 2018).
Quy chế mới bổ sung phương thức tuyển sinh và giao quyền tự chủ cho các cơ sở đào tạo. Theo đó, các trường quyết định tuyển sinh theo 3 phương thức: Thi tuyển, xét tuyển và kết hợp thi tuyển và xét tuyển.
Song song với quyền tự chủ, cơ sở đào tạo phải thực hiện trách nhiệm giải trình, thường xuyên cập nhật thông tin vào hệ thống cơ sở dữ liệu quốc gia và công khai minh bạch để xã hội cùng các bên liên quan giám sát quá trình tổ chức thực hiện.
Trước khi tổ chức tuyển sinh và đào tạo, cơ sở đào tạo phải công khai Quy chế của trường cùng các quy định liên quan đến tuyển sinh, tổ chức đào tạo và cấp bằng thạc sĩ, quyết định mở ngành đào tạo, các điều kiện bảo đảm chất lượng và thông tin khác theo quy định hiện hành.
Trên trang thông tin điện tử của mình, cơ sở đào tạo phải cập nhật công khai các thông tin: Số lượng học viên trúng tuyển, đang học, thôi học và tốt nghiệp theo từng khóa, từng ngành, chương trình đào tạo và hình thức đào tạo; kế hoạch giảng dạy, thời khóa biểu của từng lớp học; tên đề tài và tóm tắt nội dung các luận văn, đề án có thông tin học viên, người hướng dẫn và ngày bảo vệ luận văn, đề án (trừ đề tài thuộc lĩnh vực bảo mật thực hiện theo quy định của Nhà nước).
Cho phép tuyển sinh trực tuyến
Về tuyển sinh, quy chế quy định khung; ứng viên dự tuyển phải bảo đảm yêu cầu đầu vào quy định tại Thông tư quy định chuẩn chương trình đào tạo.
Cơ sở đào tạo quyết định tuyển sinh theo 3 phương thức: thi tuyển, xét tuyển và kết hợp thi tuyển và xét tuyển.
Quy chế cho phép thi tuyển theo hình thức trực tuyến khi đáp ứng điều kiện bảo đảm chất lượng để kết quả đánh giá tin cậy, công bằng như đối với tuyển sinh trực tiếp.
Các quy định mới về công nhận kết quả học tập và chuyển đổi tín chỉ
Điểm mới của Quy chế là quy định về công nhận kết quả học tập và chuyển đổi tín chỉ nhằm liên thông giữa các trình độ GDĐH, trao đổi học thuật trong nước và với nước ngoài; tạo điều kiện cho cơ sở đào tạo xây dựng chương trình đào tạo (CTĐT) ở các trình độ GDĐH liên thông với trình độ thạc sĩ; tổ chức thực hiện công nhận và chuyển đổi tín chỉ bảo đảm tiêu chuẩn và quy định của pháp luật.
Quy chế của cơ sở đào tạo phải quy định chi tiết điều kiện, tiêu chí đánh giá, quy trình cụ thể cho việc công nhận và chuyển đổi tín chỉ.
Về nguyên tắc trao đổi học viên, số lượng tín chỉ học viên theo học ở cơ sở đào tạo phối hợp được công nhận không quá 25% tổng số tín chỉ của cơ sở đào tạo học viên đang theo học nhằm bảo đảm chất lượng đào tạo.
Cơ sở đào tạo phải công khai danh mục ngành phù hợp đối với người học đã tốt nghiệp trình độ đại học (hoặc trình độ tương đương trở lên) cho từng cơ sở đào tạo.
Chỉ được đào tạo thạc sĩ tại trụ sở chính hoặc phân hiệu của cơ sở đào tạo
Về địa điểm đào tạo, Quy chế chỉ cho phép đào tạo thạc sĩ tại trụ sở chính hoặc phân hiệu của cơ sở đào tạo.
Các hoạt động thực hành, thực tập, nghiên cứu và trải nghiệm thực tế được tổ chức ngoài cơ sở đào tạo không quá 20% khối lượng CTĐT (ngoại trừ các ngành thuộc lĩnh vực sức khỏe đào tạo tại các cơ sở y tế theo quy định tại Nghị định số 111/2017/NĐ-CP của Chính phủ và của CTĐT cụ thể).
Bổ sung hình thức đào tạo vừa làm vừa học
Theo quy chế, có 2 hình thức đào tạo là hình thức đào tạo chính quy và hình thức đào tạo vừa làm vừa học.
 |
|
Bộ GD-ĐT cho biết, Quy chế bổ sung hình thức vừa làm vừa học cho chương trình định hướng ứng dụng. Thời gian đào tạo toàn khóa học đối với hình thức đào tạo vừa học vừa làm phải dài hơn ít nhất 20% so với hình thức đào tạo chính quy của cùng cơ sở đào tạo.
Quy chế yêu cầu cơ sở đào tạo xây dựng và công khai kế hoạch giảng dạy và học tập; các học phần trong cơ sở đào tạo được bố trí đều trong các tuần của học kỳ. Trong trường hợp cần thiết phải xếp lịch học tập trung thời gian, số giờ giảng đối với mỗi học phần không được vượt quá 15 giờ trong một tuần và 4 giờ trong một ngày.
Tổng số tín chỉ đăng ký tối đa trong một năm học không quá 45 tín chỉ với hình thức chính quy và không quá 30 tín chỉ với hình thức vừa làm vừa học.
Nội dung ghi trên văn bằng và phụ lục văn bằng thực hiện theo quy định của Bộ GD-ĐT, trong đó phụ lục văn bằng ghi rõ chương trình định hướng nghiên cứu hoặc định hướng ứng dụng.
Đào tạo trực tuyến không quá 30% khối lượng tín chỉ
Về phương thức đào tạo trực tuyến: Quy chế cho phép đào tạo trực tuyến không quá 30% khối lượng tín chỉ của cơ sở đào tạo.
Quy chế này cho phép đánh giá trực tuyến với điều kiện bảo đảm sự tin cậy, công bằng và khách quan như đánh giá trực tiếp, đóng góp không quá 50% trọng số điểm học phần.
Trường hợp thiên tai, dịch bệnh và bất khả kháng khác, công tác đào tạo và đánh giá trực tuyến các học phần thực hiện theo hướng dẫn của Bộ GD-ĐT.
Một người được hướng dẫn tối đa 5 học viên trong cùng một thời điểm
Quy chế quy định học viên chương trình định hướng nghiên cứu phải hoàn thành luận văn; học viên chương trình định hướng ứng dụng phải hoàn thành học phần tốt nghiệp được thể hiện bởi một đề án, hoặc đồ án, hoặc dự án (gọi chung là đề án).
Người hướng dẫn phải có trình độ tiến sĩ trở lên, chuyên môn phù hợp với ngành đào tạo và đề tài luận văn của học viên. Một trong hai người hướng dẫn phải là giảng viên cơ hữu của cơ sở đào tạo. Tại một thời điểm, một người hướng dẫn tối đa 5 học viên.
Sau khi bảo vệ thành công, toàn văn luận văn, báo cáo đề án (đã được chỉnh sửa, bổ sung theo yêu cầu của hội đồng nếu có) phải được lưu trữ tại thư viện của cơ sở đào tạo và công bố trên trang thông tin điện tử của cơ sở đào tạo trong ít nhất 30 ngày.
Đầu ra phải đạt trình độ ngoại ngữ Bậc 4
Chuẩn đầu ra ngoại ngữ ở trình độ thạc sĩ thực hiện theo Khung trình độ quốc gia Việt Nam. Học viên phải đạt trình độ ngoại ngữ Bậc 4 theo Khung năng lực ngoại ngữ 6 bậc dùng cho Việt Nam, thể hiện bằng các minh chứng như văn bằng, chứng chỉ ngoại ngữ.
Theo Thông tư ban hành Khung năng lực ngoại ngữ 6 bậc dùng cho Việt Nam, trình độ ngoại ngữ Bậc 4 tương đương với trình độ B2 theo Khung tham chiếu chung châu Âu CEFR.
Thông tư 23/2021/TT-BGDĐT ban hành Quy chế tuyển sinh và đào tạo trình độ thạc sĩ.
Phương Chi

Công chức xin đi học thạc sĩ, tiến sĩ
'... quan trọng là làm thế nào có cơ chế chọn người tài cho đúng năng lực, không chạy theo bằng cấp thì việc đầu tư cho công chức học thạc sĩ, tiến sĩ sẽ quay về với đúng ý nghĩa của nó'
" alt="Thêm hình thức đào tạo thạc sĩ vừa làm vừa học"/>
Thêm hình thức đào tạo thạc sĩ vừa làm vừa học